Thứ bảy Ngày 04 Tháng 05 Năm 2024, 07:43:15

Vững vàng thế trận lòng dân nơi biên cương Tổ quốc

Ngày đăng: 23/04/2024

QK2 – Trong 5 năm qua, Đoàn đã cử hàng trăm lượt cán bộ tham gia các tổ chức, đoàn thể địa phương; bồi dưỡng, kết nạp 103 đảng viên, xóa 28 bản “trắng” đảng viên; kiện toàn 15 tổ chức cơ sở đảng, 34 chi hội phụ nữ, 45 chi đoàn, 45 cơ sơ dân quân, 23 hội cựu chiến binh… 

Cách đây 25 năm, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; thực hiện Nghị quyết của Quân ủy Trung ương về nhiệm vụ Quân đội tham gia xây dựng kinh tế, ngày 22/6/1999, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ra Quyết định nâng cấp tổ chức Đoàn Kinh tế – Quốc phòng 379 (Đoàn Kinh tế – Quốc phòng Mường Chà) Quân khu 2. Trải qua 25 năm xây dựng và phát triển, trưởng thành, Đoàn Kinh tế – Quốc phòng 379 (KT-QP 379) có nhiều thay đổi cơ cấu tổ chức, khi tương đương cấp Lữ đoàn, trực thuộc Bộ CHQS tỉnh, có thời điểm tương đương cấp Sư đoàn, trực thuộc Quân khu 2; có lúc mang phiên hiệu Đoàn KT-QP Mường Chà…

Bộ đội Đoàn KT-QP 379 bàn giao, hướng dẫn kỹ thuật chăn nuôi cho nhân dân. Ảnh: CTV

Những ngày đầu thành lập, cán bộ, chiến sĩ hành quân tiền trạm lên khu “Ba Chà”, xây những viên gạch nền móng đầu tiên cho nhiệm vụ kinh tế – quốc phòng còn đầy rẫy những khó khăn. Ngày ấy, Ðoàn được giao phụ trách 5 xã của huyện Mường Chà, sau đó là 6 xã, rồi 8 xã và hiện nay là 28 xã thuộc 4 huyện của hai tỉnh Điện Biên và Lai Châu. Đó là các huyện Mường Chà, Mường Nhé, Nậm Pồ (Điện Biên) và Mường Tè (Lai Châu).

Thời kỳ đầu, nơi đóng quân của Đoàn tại huyện Mường Chà, đường vào mấy mươi cây số chỉ là những lối mòn luồn theo vực sâu, khe núi, xuyên qua các bản heo hút thưa thớt dân cư, mùa mưa trơn trượt, khó đi. Hầu hết các bản đều chưa có đảng viên; tỷ lệ hộ đói nghèo của các xã đều ở mức cao. Cuộc sống của bà con nhiều “không”: Không đường, không trường, không chợ. “Trạm” thì chỉ duy có một là Trạm Y tế Bản Nà Hỳ tách ra từ trạm thuộc xã Chà Cang. Nhà của đồng bào thì “toàn tạm”, lợp, thưng bằng tranh – tre – nứa – lá. Bà con nhân dân chủ yếu từ nơi khác đến, nếp ăn uống, sinh hoạt còn mang nặng tính du canh du cư; hầu như không trâu bò; có gà lợn nhưng không chuồng trại; dùng gậy chọc lỗ tra hạt là chủ yếu. Bà con kiếm được gì ăn nấy; hàng hóa không lưu thông, có làm ra, có săn bắt cũng không bán được bởi từ các bản xã về trung tâm xã Nà Hỳ cũng mất cả ngày đường. Chuyện đứt bữa, thiếu cái ăn là thường xuyên. Muối mặn với bà con còn quý hơn vàng. Bộ đội 379 đến nhà chỉ có đàn ông trẻ và con trai nói tiếng Kinh, còn con gái hầu như không biết nói tiếng Kinh, có biết lõm bõm cũng không dám tiếp xúc vì e dè, vì sợ.

Đảng ủy, chỉ huy Đoàn ngay từ ban đầu xác định, nhiệm vụ cần kíp là phải nhanh chóng giúp nhân dân thay đổi nhận thức và tập quán canh tác, sản xuất để ổn định đời sống. Nhưng làm thế nào để đến với bà con, đó là câu hỏi khó, không phải ngày một, ngày hai có câu trả lời. Cán bộ, chiến sĩ Đoàn đến với dân bắt đầu từ những việc làm nhỏ bé mà thiết thực nhất. Từ việc tự nguyện học và hiểu ngôn ngữ của đồng bào để có thể giao lưu, trao đổi với đồng bào, đến việc trồng ngô, trồng lúa nước để bà con tin và làm theo. Đồng bào vốn chỉ quen với lối du canh, du cư nên khi bộ đội nhặt đá hộc, dùng tre, nứa quây thành vườn tra ngô, trồng rau; đắp bờ be thành ruộng cấy lúa nước ngay dưới chân các bản thì ngạc nhiên lắm. Và càng ngạc nhiên hơn bởi dưới bàn tay chăm sóc của bộ đội, bãi đất bỏ hoang bao đời nay lại hiện lên những sắc xanh mơn mởn của ngô, lúa, sắn, khoai, rong riềng… Vụ đầu tiên thu hoạch, ngoài phần dự trữ của đơn vị, bộ đội đã mang chia hết cho các hộ dân của các bản xung quanh. Dần dần, đồng bào bảo nhau học cách làm của “cái bộ đội” để tìm thấy “cái no” ngay trên những mảnh đất vốn hoang hóa. 

Bộ đội Đoàn 379 còn là lực lượng xung kích tham gia củng cố cơ sở chính trị, giữ gìn an ninh trật tự tại các xã thuộc những dự án kinh tế quốc phòng. Xưa kia, chính quyền các xã khó vươn tới các bản để nắm, quản lý, thì nay có các đội sản xuất của Đoàn hỗ trợ, tham mưu xây dựng, củng cố các đoàn thể chính trị xã hội ở cơ sở, tạo nguồn phát triển đảng, khắc phục tình trạng “trắng đảng viên” ở 50 bản. Bằng cách làm “rà từng ngõ, gõ từng nhà”, cán bộ, chiến sĩ xuống các thôn, bản xa xôi thực hiện “4 cùng” với nhân dân qua đó vận động bà con không tin theo các loại “tà đạo”, không nghe theo kẻ xấu; tuyên truyền đồng bào dần loại bỏ các hủ tục lạc hậu như tảo hôn, ma chay dài ngày… để từ đó vươn lên xây dựng đời sống văn hóa mới.

Trên cơ sở nguồn vốn các dự án đầu tư trong quy hoạch, Đoàn triển khai xây dựng hệ thống hạ tầng thiết yếu (giao thông, thủy lợi, nước sạch, điện, trường học, trạm y tế…) gắn với kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và quy hoạch xây dựng công trình quân sự trong khu vực phòng thủ huyện, tỉnh. Các dự án của Đoàn đã và đang triển khai có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế – xã hội của địa phương, giúp cải thiện đời sống nhân dân, từng bước xóa tập tục canh tác lạc hậu, xóa đói giảm nghèo (tỷ lệ đói nghèo hằng năm giảm từ 4 – 5%). Cùng với đó, Đoàn phối hợp với địa phương quy hoạch, đầu tư kinh phí xây dựng, hỗ trợ di chuyển được 6 điểm dân cư tập trung, thành lập 3 bản mới… góp phần cùng địa phương sắp xếp, ổn định dân cư địa bàn biên giới; tuyển chọn hàng trăm thanh niên tốt nghiệp đại học, cao đẳng các chuyên ngành vào công tác theo dự án tăng cường trí thức trẻ tình nguyện.

Thực hiện chủ trương phối hợp chặt chẽ với địa phương vùng dự án, Đoàn chỉ đạo cơ quan và các đội sản xuất, xí nghiệp chủ động quy hoạch các khu chăn nuôi, tăng gia, trồng trọt; nghiên cứu tiếp thu, ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh; ưu tiên phát triển các loại cây có giá trị kinh tế cao, gia súc, gia cầm… mang bản sắc văn hóa địa phương, phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu thời tiết vùng cao Tây Bắc. Chú trọng xây dựng các mô hình, phong trào điểm, như: “hộ kinh tế giỏi”, “cụm gia đình, chăn nuôi” trâu, bò, dê, gà bản địa, “liên kết doanh nghiệp, đội sản xuất, nhà nông” trồng cây mắc ca… tổ chức cho nhân dân tham quan, nhân rộng trên địa bàn. Đồng thời, hỗ trợ vốn, cây, con giống, chuyển giao khoa học kỹ thuật chăm sóc, chế biến, bảo quản, bao tiêu sản phẩm đầu ra. 

Với chức năng của “Đội quân công tác”, Đoàn chủ động phối hợp với cấp ủy, chính quyền các địa phương, lực lượng liên quan nâng cao hiệu quả công tác dân vận theo phương châm “3 bám, 4 cùng, 5 có”, vừa tuyên truyền, vận động, nắm tình hình tư tưởng, dư luận, vừa giúp đỡ nhân dân lao động sản xuất, phát triển kinh tế. Kết hợp công tác dân vận với hoạt động khám chữa bệnh, thăm hỏi, tặng quà các đối tượng chính sách, hộ nghèo.

Từ tháng 7 năm 2023, Đoàn triển khai thực hiện 10 mô hình dự án phát triển kinh tế do Bộ Quốc phòng giao gồm: Mô hình nuôi các giống bò, trâu, dê, ngựa sinh sản cùng các mô hình lợn bản địa; cá trắm cỏ; rô phi đơn tính; gà H’Mông; lê ăn quả và dổi ăn hạt; hỗ trợ các hộ nghèo, hộ cận nghèo là người dân tộc thiểu số trên địa bàn có điều kiện phát triển kinh tế gia đình mà không có vốn hoặc không đủ vốn để phát triển sản xuất; gắn phát triển sản xuất với giảm nghèo trên cơ sở chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi cho phù hợp; phát triển kinh tế hộ gia đình bằng nhiều ngành nghề phù hợp với năng lực quản lý, kỹ thuật, tài chính của người nghèo, tạo điều kiện cho hộ thoát nghèo bền vững… Đến nay đã triển khai đạt 100% kế hoạch.

Cùng với đó, Đoàn chỉ đạo các cơ quan, đơn vị tích cực tham gia xây dựng, củng cố hệ thống chính trị cơ sở. Sau 25 năm gắn bó với vùng đất biên cương cực Tây của Tổ quốc, biết bao công sức, bao giọt mồ hôi và cả máu của bộ đội đã đổ xuống để giúp dân xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống. Đoàn KT-QP 379 từng bước lớn mạnh và trưởng thành, vững vàng thực hiện nhiệm vụ củng cố quốc phòng, làm chỗ dựa để cấp ủy, chính quyền, nhân dân phát triển kinh tế, ổn định đời sống, góp phần cùng LLVT Quân khu và cấp ủy, chính quyền, nhân dân địa phương, các lực lượng cùng đứng chân bảo vệ vững chắc biên giới Tây Bắc của Tổ quốc.

Đại tá NGUYỄN VĂN HUÂN, Chính ủy Đoàn Kinh tế – Quốc phòng 379
 

Trả lời

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiển thị công khai.